Các tổ chức tài chính ở việt nam là một trong những keyword được search nhiều nhất về chủ đề Các tổ chức tài chính ở việt nam. Trong bài viết này, sum.vn sẽ viết bài viết Các tổ chức tài chính ở việt nam mới nhất 2020.
Mục lục
- 1 Các tổ chức tài chính ở việt nam mới nhất 2020
- 1.1 Đặt vấn đề:
- 1.2 II) Về thực trạng phát triển thị trường tiền tệ
- 1.3 III) Về thực trạng phát triển thị trường tiền send và huy động vốn:
- 1.4 IV) Về công cuộc xây dựng và tăng trưởng thị trường chứng khoán:
- 1.5 V) Một số đánh giá về thực trạng phát triển thị trường tài chính ở nước ta
- 1.6 VI) Lý do của trạng thái trên:
- 1.7 VII) Giải pháp và kiến nghị cho tăng trưởng thị trường tài chính ở nước ta trong thời gian tới:
Các tổ chức tài chính ở việt nam mới nhất 2020
Đặt vấn đề:
thực tế ở nước ta trong giới khoa học kinh tế nói chung và chuyên ngành nghề tài chính – tiền tệ nói riêng đang tồn tại một số ý kiến không trùng lặp khớp nhau về đối tượng vốn và đối tượng tài chính. Một số người quan điểm rằng, thị trường vốn gồm có thị trường vốn ngắn hạn và phân khúc vốn dài hạn; trong đó đối tượng vốn lâu dài là đối tượng chứng khoán. Một số khác thì cho rằng, thị trường vốn bao gồm thị trường tiền tệ và đối tượng tài chính; trong đó, thị trường tài chính là thị trường chứng khoán…
Dù ý kiến nào đi nữa, thì nó luôn luôn phải bao gồm thị trường vốn ngắn hạn và đối tượng vốn dài hạn. vì thế, nếu quan niệm thị trường tài chính gồm có phân khúc vốn ngắn hạn và thị trường vốn trung hạn, thì thị trường tiền tệ và đối tượng chứng khoán chính là hai bộ phận đối tượng đó. Thực hiện công cuộc đổi mới nền kinh tế, chuyển sang tăng trưởng theo cơ chế thị trường, nhanh chóng hội nhập khu vực và quốc tế, Đảng và Chính phủ ta vừa mới chú trọng tăng trưởng cả phân khúc tiền tệ và thị trường chứng khoán ngay từ đầu thập kỷ 90 của thế kỷ trước, bắt đầu từ hai Pháp lệnh ngân hàng, HTX tín dụng và công ty tài chính có hiệu lực thi hành tháng 5-1990.
II) Về thực trạng phát triển thị trường tiền tệ
tham dự là member của các dạng đối tượng tiền tệ có 5 bank thương mại Nhà nước, ngân hàng chính sách không gian, 36 bank thương mại cổ phần, 4 bank liên doanh, 27 chi nhánh ngân hàng nước ngoài, Qũy tín dụng TW, 900 Quỹ tín dụng nhân dân cơ sở, một số công ty bảo hiểm và tái bảo hiểm, Quỹ đầu tư… ngoài ra tham gia là thành viên của đối tượng liên ngân hàng, đối tượng đấu thầu tín phiếu Kho bạc nhà nước, phân khúc xây dựng… Thì chẳng phải all các đơn vị trên, gần như chỉ có các NHTM NN, NHTM cổ phần đô thị, ngân hàng liên doanh, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, một số doanh nghiệp bảo hiểm…
Về cơ chế ảnh hưởng và can thiệp trên thị trường tiền tệ, được thể hiện tập hợp ở các tool điều hành chính sách tiền tệ và nghiệp vụ ngân hàng Trung ương. Theo đó, dần dần thích hợp với thông lệ quốc tế, từ tháng 6-2002, ngân hàng Nhà nước chuyển sang thực hiện cơ chế điều hành lãi suất cơ bản trước đây. Hàng tháng bank Nhà nước công bố lãi suất cơ bản, vẫn quy định lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu; cùng với lãi suất nghiệp vụ hoán đổi ngoại tệ Swap, lãi suất đối tượng xây dựng, lãi suất phân khúc đấu thầu tín phiếu kho bạc nhà nước ảnh hưởng vào lãi suất thị trường, lãi suất huy động vốn và lãi suất cho vay của các đơn vị tín dụng.
ảnh hưởng vào lãi suất còn có tool dự trữ bắt buộc. Khi bank Nhà nước điều chỉnh gia tăng % dự trữ bắt buộc, có ảnh hưởng sử dụng gia tăng ngân sách đầu vào của các TCTD. do đó hoặc là các TCTD giữ nguyên lãi suất huy động vốn thì phải tăng lãi suất cho vay; hoặc là song song vừa phải gia tăng lãi suất cho vay, vừa phải gia tăng lãi suất huy động vốn.
công cụ điều hành tỷ giá cũng có tác động vào lãi suất của các TCTD trên phân khúc tiền tệ, nhưng k rõ nét.
Với sự phát triển của các tổ chức trung gian tài chính, đặc biệt là các TCTD, với cơ chế điều hành chính sách tiền tệ và nghiệp vụ ngân hàng Trung ương tiến dần tới phù hợp với thông lệ quốc tế, các ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng được chủ động trong các hoạt động huy động vốn và cho vay của mình, tham dự tích cực, năng động và cạnh tranh mạnh mẽ với nhau trên đối tượng tiền tệ, theo đó, nó cũng có điều kiện xúc tiến thị trường tiền tệ phát triển.
III) Về thực trạng phát triển thị trường tiền send và huy động vốn:
Đây là thị trường có sự cạnh tranh mạnh mẽ nhất và sôi động nhất giữa các tổ chức trung gian tài chính trong việc lôi kéo tiền nhàn rỗi trong dân cư. Trong thời gian Hiện nay, các đơn vị tín dụng mang ra các hình thức sau:
– Cạnh tranh khuyên rằng khách hàng xây dựng tài khoản một mình, account sử dụng thẻ… Tính đến nay trong cả nước đã mở được khoảng trên 1.300.000 account cá nhân, trong đó có khoảng trên 750.000 tài khoản của các chủ thể.
– Cạnh tranh thu hút tiền send không kỳ hạn của các tổ chức kinh tế – xã hội. Giữa các TCTD cạnh tranh lôi kéo tiền send của Kho bạc nhà nước, bảo hiểm thế giới VN, Bảo Việt, các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ, bưu chính viễn thông, điện lực…
– Cạnh tranh thu hút tiền gửi tiết kiệm: đây là hình thức huy động vốn truyền thống giữa các TCTD và doanh nghiệp dịch vụ tiết kiệm bưu điện, nhất là các Quỹ tín dụng nhân dân cơ sở. Thời gian gần đây, để khuyến khích KH, một số bank thương mại mang ra dịch vụ: gửi một kênh lĩnh nhiều kênh, cắt giảm tích lũy hay còn gọi là cắt giảm gửi góp, cắt giảm gắn với bảo hiểm nhân thọ, tiết kiệm lũy tiến trả lãi theo số tiến gửi càng cao thì lãi suất càng cao, tiết kiệm linh động tức là khách được chủ động rút tiền ra bất cứ lúc nào có nhu cầu và lãi suất tính theo số ngày thực tiễn send tương ứng với kỳ hạn gần nhất, cắt giảm dự thưởng…
– Phát hành các chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, trái phiếu… Chủ yếu là huy động vốn có thời hạn từ 6 tháng trở lên, lãi suất hấp dẫn.
Trong những năm Khoảng thời gian mới đây, vừa mới có sự cạnh tranh sôi động trên phân khúc lôi kéo tiền gửi và đối tượng huy động vốn, đặc biệt là các đơn vị trung gian tài chính thực hiện rất thông dụng và phong phú các món hàng và dịch vụ lôi kéo tiền send, huy động vốn.
tuy nhiên trong việc tăng trưởng thị trường này, đủ sức thấy một tồn tại to là chưa lôi kéo được tối đa tiền send không kỳ hạn, tiền nhàn rỗi trong dân cư vào hệ thống ngân hàng, trên cơ sở đó lựa chọn các dịch vụ thanh toán qua ngân hàng hay rút tiền mặt ra chi tiêu bất cứ lức nào có nhu cầu. Đây là gốc vốn rất to và rất cần thiết, tạo đà cho phát triển đối tượng tiền tệ, bởi vì nó tăng trưởng nguồn tiền send k kỳ hạn, gia tăng vốn khả dụng cho các TCTD.
IV) Về công cuộc xây dựng và tăng trưởng thị trường chứng khoán:
Sau một thời gian thiết lập và tăng trưởng, đến nay vừa mới có trên 100 công ty niêm yết cổ phiếu và một số loại trái phiếu được niêm yết trên trung tâm giao dịch chứng khoán tp Sài Gòn. Trong lĩnh vực này, nền tảng ngân hàng tiếp tục đóng vai trò tích cực trong phát triển thị trường chứng khoán, với hầu hết trong số gần 50 công ty mua bán chứng khoán đang hoạt động là trực thuộc các ngân hàng thương mại, với thông dụng các nghiệp vụ: môi giới, tư vấn đầu tư, lưu ký chứng khoán, cho vay thanh toán chứng khoán… Hầu hết các công ty này đều mua bán có kết quả. Một số doanh nghiệp đang tổ chức đại lý đấu thầu cổ phiếu của một số NHTM cổ phần phát hành mới gia tăng thêm vốn điều lệ.
NHNN cũng đã ban hành quy định tạm thời về việc niêm yết cổ phiếu của NHTM cổ phần trên Trung tâm giao dịch chứng khoán. hiện giờ nhiều NHTM cổ phần đã chuẩn bị niêm yết cổ phiếu trên Trung tâm giao dịch chứng khoán. Được biết hiện giờ NHTM cổ phần Sài Gòn Thương Tín vừa mới có đơn và hồ sơ đề xuất ngân hàng Nhà nước cho phép chủ đề này.
Tuy chưa chính thức niêm yết giao dịch trên Trung tâm giao dịch chứng khoán, nhưng thời gian qua, cổ phiếu của nhiều NHTM cổ phần đang giao dịch đơn lẻ, k chính thức trên phân khúc phi hội tụ OTC. Mệnh giá cổ phiếu của nhiều NHTM cổ phần được giao dịch cao gấp 1,1 lần đến 2,5 lần đối với mệnh giá ban đầu. Uy tín trong và ngoài nước của nhiều bank thương mại cổ phần ngày càng tăng lên. Nhiều tổ chức tài chính quốc tế và ngân hàng nước ngoài đã và đã mua cổ phần, chuyển giao công nghệ ngân hàng hiện đại, support về tài chính cho các bank thương mại cổ phần.
Thủ tướng Chính phủ vừa mới chính thức có quyết định cổ phần hóa bank Ngoại thương VN. Theo plan, ngân hàng ngoại thương Viet Nam đang triển khai bước trước nhất cổ phần hóa. Tổng trị giá cổ phiếu phát hành trên hai Trung tâm giao dịch chứng khoán để gia tăng vốn điều lệ vào khoảng 1.000 tỷ đồng.
Với khối lượng giá trị cổ phiếu lớn như vậy nếu được giao dịch và niêm yết trên hai Trung tâm giao dịch chứng khoán, thì chứng khoán giao dịch chủ yếu của hai Trung tâm này sẽ là cổ phiếu của ngân hàng Ngoại thương Việt Nam. kế tiếp đó sẽ là bank phát triển Nhà đồng bằng sông Cửu Long và ngân hàng Đầu tư-phát triển Việt Nam cũng đề nghị được cổ phần hóa. Khi đó dĩ nhiên hoạt động của hai Trung tâm giao dịch chứng khoán sẽ sôi động hẳn lên, tạo hệ thống mới cho sự phát triển đối tượng chứng khoán VN.
V) Một số đánh giá về thực trạng phát triển thị trường tài chính ở nước ta
Về phân khúc vốn ngắn hạn hay còn gọi là thị trường tiền tệ. Quan sát chung đối tượng này chưa tăng trưởng và bank Nhà nước NHTW, chưa thực sự làm vai trò can thiệp có kết quả vào đối tượng này. Các loại lãi suất của NHTW: lãi suất cơ bản, lãi suất tái cấp vốn, lãi suất chiết khấu, lãi suất nghiệp vụ thị trường mở, lãi suất đấu thầu tín phiếu kho bạc nhà nước có ảnh hưởng rõ nét đến phân khúc. Các tool điều hành chính sách tiền tệ, đặc biệt là tool dự trữ bắt buộc… Thiếu linh động. Các NHTM và đơn vị tín dụng cạnh tranh với nhau gia tăng lãi suất huy động vốn một phương pháp một chiều, tạo nguy cơ tiềm ẩn nguy cơ cho chính các NHTM.
Về đối tượng chứng khoán. đủ nội lực khẳng định rằng, trong công cuộc tăng trưởng đối tượng chứng khoán Việt Nam, tiềm năng của việc tham dự của các NHTM là rất to. Việc các NHTM cổ phần niêm yết cổ phiếu trên Trung tâm giao dịch chứng khoán, các NHTM NN cổ phần hóa thực hiện phát hành cổ phiếu lần đầu trên Trung tâm, cũng như tới đây sẽ có thêm một số doanh nghiệp kinh doanh chứng khoán của các NHTM đi vào hoạt động… Sẽ tạo đà xúc tiến phân khúc chứng khoán Việt Nam phát triển mạnh hơn nữa.
Song cho đến thời điểm này, mới chỉ có gần 100 công ty cổ phần niêm yết cổ phiếu trên Trung tâm giao dịch chứng khoán Tp Hồ Chí Minh là quá ít, tạo ra sự nghèo nàn món hàng trên thị trường chứng khoán. Cổ phiếu của các NHTM chưa được niêm yết và giao dịch cũng phần nào giới hạn tính sôi động của đối tượng. Tính thanh khoản của thị trường chưa cao. Thông tin chưa thật sự minh bạch.
VI) Lý do của trạng thái trên:
bank TW chưa thực sự mạnh, năng lực điều hành chính sách tiền tệ và vận hành nghiệp vụ NHTW còn giới hạn. Họat động dịch vụ của các NHTM và TCTD chưa phát triển. công cuộc cơ cấu lại các NHTM chưa đạt được các hiệu quả giống như dự kiến, đặc biệt là xử lý nợ xấu đã có xu hướng tăng trưởng trở lại. Việc gia tăng vốn điều lệ để đảm bảo tỷ lệ an toàn theo thông lệ quốc tế.
công cuộc cổ phần hóa DNNN nói chung, cổ phần hóa NHTM Nhà nước nói riêng còn rất chậm, đây cũng là lực cản cho thành đạt phân khúc chứng khoán Việt Nam. bên cạnh đó, việc Hội đồng quản trị các NHTM cổ phần có tư tưởng chần chừ, chậm mang cổ phiếu của các NHTM cổ phần của mình niêm yết trên Trung tâm giao dịch chứng khoán, cũng sử dụng chậm tiến trình nói trên.
VII) Giải pháp và kiến nghị cho tăng trưởng thị trường tài chính ở nước ta trong thời gian tới:
VN k thể đẩy quá mau việc xây dựng phân khúc tài chính, cũng giống như phân khúc chứng khoán vượt lên trên sự phát triển chung của nền kinh tế, tức là phải phát triển đồng bộ, dĩ nhiên là cần phải có sự ưu tiên thiết lập các tiền đề, cơ sở hạ tầng nào đó. Chúng ta không thể nôn nóng, cũng giống như không thể ngồi chờ cho đủ điều kiện được. giống như phần đầu post đã đề cập, thị trường tiền tệ và thị trường chứng khoán có mối liên hệ mật thiết với nhau. Khi lãi suất trên phân khúc tiền tệ tăng lên, khi đối tượng tiền tệ nóng lên, thì thị trường chứng khoán cũng sôi động. tăng trưởng phân khúc tiền tệ, làm tăng tốc độ chu chuyển vốn ngắn hạn trong nền kinh tế, nâng cao khả năng mua bán trên đối tượng tiền tệ của các tổ chức trung gian tài chính, giúp cho các tổ chức này sẵn sàng tham dự có hiệu quả trên phân khúc chứng khoán. Theo đó một số đề nghị và kiến nghị giống như sau:
– bank Nhà nước và Bộ Tài chính, trực tiếp là Ủy ban chứng khoán Nhà nước phối hợp chặt chẽ mạnh dạn đưa 2-4 NHTM cổ phần trước hết niêm yết cổ phiếu trên Trung tâm giao dịch chứng khoán. hòa hợp chặt chẽ, trên cơ sở tài trợ quốc tế, tổ chức các cuộc hội thảo, khóa training, tập huấn ngắn ngày về nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán và niêm yết cổ phiếu của NHTM trên thị trường chứng khoán. Bộ Tài chính cũng nên cùng NHNN tập hợp tháo gỡ vướng đắt tiền trong việc thẩm định giá NHTM và một số giải pháp không giống đẩy mau công cuộc cổ phần hóa hai NHTM NN trước nhất theo plan.
– ngân hàng Nhà nước và Bộ Tài chính kết hợp gia tăng khối lượng tín phiếu Kho bạc Nhà nước đấu thầu hàng quý, hàng năm. đủ sức gia tăng tần suất các phiên đấu thầu từ 1 phiên/1tuần hiện nay lên 2 phiên/tuần. linh hoạt thêm nữa lãi suất đấu thầu qua các phiên theo sát diễn biến trên phân khúc. Thời hạn tín phiếu cũng có thể phổ biến hơn, giống như kỳ hạn 60 ngày, 90 ngày… Thay cho chỉ có loại 360 ngày như bây giờ. cần có cơ chế để các NHTM cổ phần và ngân hàng không giống có quy mô nhỏ hơn đủ sức trúng thầu tín phiếu trên đối tượng này. Đặc biệt là Bộ Tài chính nên có biện pháp mang các công ty bảo hiểm, đơn vị bảo hiểm tham dự đấu thầu tín phiếu, không nên để hiện trạng lãng phí vốn hay liên kết tiền send k kỳ hạn trực tiếp với các TCTD giống như hiện tại.
– bank Nhà nước có biện pháp bảo đảm tính nền móng của Quỹ tín dụng, có cơ chế điều hòa vốn linh động hơn của hệ thống này. Trên cơ sở đó tạo điều kiện lôi kéo Quỹ tín dụng tham dự phân khúc liên ngân hàng và các dạng không giống của phân khúc tiền tệ so NHNN tổ chức, vận hành.
– NHNN nâng cấp thị trường nội tệ liên bank, thể hiện rõ vai trò can thiệp cuối cùng của NHNN trên phân khúc này. Tiến tới công bố được lãi suất đối tượng nội tệ liên ngân hàng ở Viet Nam do là lãi suất chủ đạo của ngân hàng Nhà nước Viet Nam.
– chính mình các tổ chức trung gian tài chính cần phải gấp rút đa dạng hóa các nghiệp vụ kinh doanh của mình, nhất là nghiệp vụ mua bán trên thị trường tiền tệ theo thông lệ quốc tế. Các NHTM mạnh dạn đầu tư thêm nữa cho các nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán và lôi kéo tiền gửi không kỳ hạn, dịch vụ thanh toán cho khách hàng. Đây cũng chính là các nhà đầu tư cá nhân trên phân khúc chứng khoán trong thời gian tới, cũng giống như là KH tiềm năng của nghiệp vụ mua bán chứng khoán mà ngân hàng thương mại cần nhằm tới lôi kéo.
Nguồn:https://topica.edu.vn
Xem thêm
Các trang web Affiliate Marketing tốt nhất ở Việt Nam và cả nước ngoài bạn nên biết